2017
Anh Cả Robert D. Hales: Một Cuộc Đời Đáng Kính
Để Tưởng Niệm: Anh Cả Robert D. Hales


Anh Cả Robert D. Hales: Một Cuộc Đời Đáng Kính

“Ôi, nếu tôi có được tiếng nói và tiếng kèn của một thiên sứ để tôi có thể nói với toàn thể nhân loại rằng [Chúa Giê Su Ky Tô] đã sống lại và Ngài hằng sống; rằng Ngài là Con của Thượng Đế, Con Trai Độc Sinh của Đức Chúa Cha, Đấng Mê Si đã được hứa, Đấng Cứu Chuộc và Đấng Cứu Rỗi của chúng ta; rằng Ngài đã đến thế gian này để giảng dạy phúc âm bằng cách nêu gương. Sứ mệnh thiêng liêng của Ngài là nhằm hướng dẫn các anh chị em và tôi đến cùng Ngài và Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.”1

Hình Ảnh
Robert D. Hales and his wife, Mary

Bìa: hình do Stuart Johnson chụp, Deseret News

Khi Anh Cả Robert D. Hales còn là phi công lái máy bay chiến đấu trong Không Lực Hoa Kỳ trong thập niên 1950, các thành viên trong phi đội của ông đã chấp nhận một phương châm nhằm soi dẫn họ trong bổn phận của họ.

Anh Cả Hales nói với những người nắm giữ chức tư tế vào năm 1990 trong khi phục vụ với tư cách là Giám Trợ Chủ Tọa: “Phương châm của đơn vị chúng tôi—được trưng bày ở bên hông chiếc máy bay của chúng tôi—là ‘Trở Về trong Danh Dự.’ Phương châm này là một lời nhắc nhở thường xuyên cho chúng tôi về quyết tâm của chúng tôi để trở lại căn cứ của mình trong danh dự chỉ sau khi đã tận dụng hết các nỗ lực của chúng tôi để hoàn tất thành công mọi mặt của sứ mệnh của mình.”2

Hình Ảnh
Robert D. Hales as pilot with plane; as businessman

Anh Cả Hales, người thường xuyên nói về việc trở về trong danh dự, đã tin rằng tất cả con cái của Cha Thiên Thượng có thể được giúp đỡ dọc theo con đường vĩnh cửu của họ bằng cách áp dụng phương châm này trong cuộc sống của họ. Vì mỗi ngày của cuộc sống là một sứ mệnh, nên ông đã dạy: “Chúng ta cần phải nhớ rằng mình là ai và mục đích vĩnh cửu của mình là ‘Trở Về trong Danh Dự,’ với gia đình của chúng ta nơi hiện diện của Cha Thiên Thượng.”3

Trong bổn phận của ông là một người chồng và người cha, giám đốc kinh doanh, và Vị Thẩm Quyền Trung Ương của Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô trong hơn 40 năm, Anh Cả Hales đã ghi nhớ ông là ai và đã hành động một cách phù hợp. Và qua lòng trung thành, sự vâng lời, chuyên cần và phục vụ của mình, ông đã nêu gương phương châm của phi đội trong suốt cuộc sống của ông.

Một Gia Đình Rất Gần Gũi Thân Mật

Hình Ảnh
Robert D. Hales with his parents and siblings; as a child

Robert Dean Hales sinh ra tại thành phố New York City, Hoa Kỳ, vào ngày 24 tháng Tám năm 1932, người con út trong ba người con của Ông J. Rulon Hales và Bà Vera Marie Holbrook Hales. Robert lớn lên ở gần Long Island trong một ngôi nhà đặt trọng tâm vào phúc âm. Cha mẹ của ông đã phục vụ trong nhiều chức vụ kêu gọi khác nhau của Giáo Hội, kể cả với tư cách là những người truyền giáo của giáo khu, và mỗi Chủ Nhật, gia đình ông đi hơn 32 cây số để tham dự Tiểu Giáo Khu Queens.

Anh Cả Hales đã nhớ lại: “Chúng tôi là một gia đình rất gần gũi thân mật.” Ông đã gọi căn nhà thời niên thiếu của mình là “một nơi tuyệt vời để lớn lên” và gia đình của ông là “một nguồn sức mạnh.”4

Tấm gương tốt do cha mẹ của ông nêu lên đã trở thành những kỷ niệm hướng dẫn cuộc sống của ông.5 Anh Cả Hales nói: “Họ đã sống theo phúc âm, học thánh thư và làm chứng về Thượng Đế Đức Chúa Cha và Vị Nam Tử của Ngài, Chúa Giê Su Ky Tô. Họ cũng chia sẻ lời chứng về Tiên Tri Joseph Smith.”6

Khi còn nhỏ, ông đã học được rằng “bí quyết để củng cố gia đình chúng ta là mang Thánh Linh của Chúa vào trong nhà của mình.”7

Mẹ của ông, người đã phục vụ hơn 30 năm trong Hội Phụ Nữ, đã dạy Robert biết yêu thương và phục vụ khi bà đưa ông đi phục vụ người nghèo khó và người hoạn nạn.8 Cha của ông, một họa sĩ chuyên nghiệp ở thành phố New York City, đã dạy Robert những bài học lâu dài về chức tư tế và Sự Phục Hồi. Vào một dịp nọ, ông đưa Robert đến sông Susquehanna là nơi Joseph Smith và Oliver Cowdery đã nhận được thẩm quyền của Chức Tư tế A Rôn từ Giăng Báp Tít. Một dịp khác, ông đưa Robert tới Khu Rừng Thiêng Liêng.

Anh Cả Hales nhớ lại: “Chúng tôi đã cầu nguyện với nhau trong khu rừng và bày tỏ ước muốn của chúng tôi là được trung thành và trung tín với chức tư tế mà chúng tôi nắm giữ. Về sau cha tôi đã vẽ một bức tranh về nơi mà chúng tôi đã cầu nguyện và tặng nó cho tôi như là một lời nhắc nhở về những lời hứa mà chúng tôi đã cùng nhau lập vào ngày hôm đó. Bức tranh đó được treo trong văn phòng của tôi ngày nay và là một lời nhắc nhở mỗi ngày về kinh nghiệm thiêng liêng và những lời hứa của tôi với người cha trần thế của tôi cũng như Cha Thiên Thượng của tôi.”9

Hình Ảnh
Robert D. Hales as young baseball player; in Dodgers uniform

Là một cầu thủ bóng chày khi còn trẻ, Robert sau đó chơi ở trường trung học và trường đại học, và vào năm 2007 ông đã ném quả bóng đầu tiên khai mạc nghi lễ tại một cuộc thi đấu chuyên nghiệp.

Hình do Sonja Eddings Brown chụp

Khi còn là thanh niên, Robert thích chơi bóng chày, cuối cùng ông chơi cho trường University of Utah. Trên chuyến xe buýt trở về nhà sau khi đi thi đấu thể thao lần đầu tiên ở ngoài thị trấn với đội tuyển trung học, lúc bấy giờ ông là học sinh lớp chín đã kinh hoảng trước một số hành vi và lời lẽ của các bạn đồng đội của mình. Để củng cố Robert, cha ông đã vẽ cho ông hình một hiệp sĩ.

“Trong khi ông vẽ và đọc từ thánh thư, tôi đã học được việc làm một người nắm giữ chức tư tế trung tín là như thế nào—để bảo vệ vương quốc của Thượng Đế. Những lời của Sứ Đồ Phao Lô đã hướng dẫn tôi” (xin xem Ê Phê Sô 6:13–17).

Khi nghĩ về bài học đó nhiều năm về sau, Anh Cả Hales đã dạy: “Nếu chúng ta trung tín trong chức tư tế, thì khí giới này sẽ được ban cho chúng ta với tính cách là ân tứ từ Thượng Đế. Chúng ta cần khí giới này!”10

Anh Cả Hales đã học được một thuộc tính quan trọng khác từ tấm gương của cha mình.

Ông nói: “Tôi đã học được cách tôn trọng phụ nữ từ sự chăm sóc dịu dàng của cha tôi đối với mẹ và chị tôi, và các chị em gái của ông”. Sau khi mẹ của Anh Cả Hales bị đột quỵ, “tình yêu thương chăm sóc cho người bạn đời trân quý” của cha ông trong hai năm cuối cùng của cuộc đời bà đã trở thành một tấm gương mà ông không bao giờ quên. “Cha tôi nói với tôi rằng đó là một phần nhỏ trả lại cho hơn năm mươi năm tình yêu tận tụy của mẹ tôi dành cho cha tôi.”11

Tài Sản Quý Báu Nhất của Ông

Trong khi đang ở nhà nghỉ hè năm 1952, Robert đã gặp một thiếu nữ tên là Mary Crandall, gia đình cô ấy mới dọn đến New York từ California. Cả hai người đều thích nhau ngay lập tức.

Anh Cả Hales đã nhớ lại: “Sau khi gặp cô ấy, thì tôi không bao giờ đi hẹn hò với ai nữa cả”.12

Khi mùa hè kết thúc, cả hai quay trở lại Utah để đi học. Robert theo học trường University of Utah trong khi Mary theo học trường Brigham Young University, nhưng họ không để khoảng đường xa ngăn cách họ. Ngay sau khi niên học chấm dứt, họ kết hôn ở Đền Thờ Salt Lake vào ngày 10 tháng Sáu năm 1953. Trong hơn năm năm tiếp theo, họ được ban phước với hai người con trai là Stephen và David.

Hình Ảnh
Robert and Mary Hales on wedding day; Robert and Mary with their sons

Sau khi Robert tốt nghiệp năm 1954 với bằng cấp về truyền thông và kinh doanh, ông đã gia nhập không lực, phục vụ với tư cách là phi công lái máy bay chiến đấu. Khi sự phục vụ của ông trong quân ngũ kết thúc gần bốn năm sau đó, ông chuyển gia đình từ Florida đến Massachusetts để theo đuổi bằng cao học về quản trị kinh doanh. Trong khi đang cố gắng hết khả năng tại trường Harvard Business School, ông được kêu gọi với tư cách là chủ tịch nhóm túc số các anh cả. Đây là lần duy nhất trong đời mà ông từng tự hỏi liệu mình có nên chấp nhận một sự kêu gọi của Giáo Hội không.

Ông nói với Mary: “Việc học của anh có thể thất bại nếu anh trở thành một chủ tịch nhóm túc số các anh cả.”

Mary đã đáp bằng những lời mà giúp đỡ ông trong suốt cuộc đời còn lại của ông: “Bob à, em thà có một người nắm giữ chức tư tế tích cực hơn là một người có bằng cao học từ Harvard.” Rồi bà vòng tay ôm ông và nói thêm: “Chúng ta sẽ làm cả hai nhé.”13

Và họ đã làm vậy.

Ngày hôm sau, Mary ngăn một phần của tầng hầm chưa làm xong của căn hộ của họ thành một bức tường để Robert có một nơi học hành mà không bị quấy rầy.

Ba mươi năm sau, Anh Cả Hales nói: “Tôi đặt mình vào tay Chúa khi tôi chọn quyết định đó” để chấp nhận sự kêu gọi. “Quyết định đó khó để chọn lúc bấy giờ hơn khi mà nhiều năm sau tôi chấp nhận sự kêu gọi để phục vụ với tư cách là Phụ Tá cho Nhóm Túc Số Mười Hai và bỏ lại sau lưng sự nghiệp kinh doanh của mình.”14

Nhiều năm sau đó, sau khi gia đình của ông đã trở nên vững vàng về mặt tài chính, Anh Cả Hales dự định mua cho Mary một chiếc áo khoác đắt tiền. Khi ông hỏi bà nghĩ gì về dự định mua sắm của ông, bà đã hỏi: “Anh mua món đồ này cho em hay là cho anh vậy?”

Anh Cả Hales gọi câu hỏi của bà là “một bài học khó quên được.” Ông nhận xét: “Nói cách khác, bà ấy như đang hỏi: ‘Có phải mục đích của món quà này là để cho thấy tình yêu của anh dành cho em hay để cho em thấy anh là người chu cấp lo liệu tuyệt vời trong gia đình hay để chứng minh một điều gì đó với thế gian không?’ Tôi đã suy ngẫm về câu hỏi của bà và nhận biết rằng tôi đã suy nghĩ ít hơn về vợ tôi và gia đình, mà nhiều hơn về tôi.”15

Anh Cả Hales thừa nhận rằng vợ ông là tài sản quý báu nhất của ông.16 Ông nói: “Tôi không được như bây giờ nếu không có vợ tôi. Tôi yêu vợ tôi sâu đậm. Bà có các ân tứ của Thánh Linh. Chúng tôi học thánh thư chung với nhau, và có nhiều khái niệm tôi đã dạy là nhờ vào việc chúng tôi đã học và cầu nguyện chung với nhau. Đó là lý do tại sao tôi được như bây giờ.”17

Anh Cả Hales cho rằng ông và Mary đã đạt được nhiều thành công trong mối quan hệ vợ chồng của họ. “Chúng tôi luôn luôn là một cặp và luôn luôn sẽ là như vậy. Tôi nghĩ việc lắng nghe vợ tôi, bên cạnh việc lắng nghe Đức Thánh Linh, là ảnh hưởng quan trọng nhất trong cuộc đời tôi.”18

Hình Ảnh
Robert D. Hales with Mary in front of temple; with Mary and President and Sister Kimball

“Anh Sẽ Có Nhiều Sứ Mệnh”

Sau khi Robert tốt nghiệp bằng Cao Học Quản Trị Kinh Doanh vào năm 1960, cơ hội nghề nghiệp đã nhanh chóng chờ đón ông. Trong 15 năm tiếp theo, ông đã phục vụ với tư cách là giám đốc điều hành cấp cao cho một số công ty nổi tiếng ở Hoa Kỳ. Sự nghiệp kinh doanh xuất sắc của ông đã đưa ông và gia đình của ông đến một số thành phố ở Mỹ cũng như đến nước Anh, Đức và Tây Ban Nha. Những lần chuyển nhà đó đã mang đến những chức vụ kêu gọi lãnh đạo trong Giáo Hội, mà Robert luôn sẵn lòng chấp nhận.

Ông đã phục vụ trong các chủ tịch đoàn chi nhánh ở Tây Ban Nha, Đức, và ở Hoa Kỳ tại Georgia và Massachusetts. Ông đã phục vụ với tư cách là giám trợ ở Frankfurt, Đức, và ở Massachusetts và Illinois, Hoa Kỳ. Ông đã phục vụ với tư cách là ủy viên hội đồng thượng phẩm ở London, Anh, và Boston, Massachusetts, là nơi ông cũng từng phục vụ trong chủ tịch đoàn giáo khu. Ông đã phục vụ với tư cách là người đại diện giáo vùng ở Minnesota và Louisiana, Hoa Kỳ.

Năm 1975, trong khi tham dự một buổi họp hội đồng kinh doanh, Robert nhận được một lời nhắn rằng Chủ Tịch Marion G. Romney (1897–1988), lúc bấy giờ là Đệ Nhị Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn đang chờ nói chuyện với ông trên điện thoại. Khi Robert trả lời điện thoại, thì Chủ Tịch Romney đã kêu gọi ông phục vụ với tư cách là một chủ tịch phái bộ truyền giáo. Robert đã chấp nhận sự kêu gọi này, nhưng trước khi ông có thể đảm nhận nhiệm vụ của mình vào cuối năm đó với tư cách là chủ tịch Phái Bộ Truyền Giáo England London, thì ông nhận được một cú điện thoại khác từ Salt Lake City, lần này từ Chủ Tịch Spencer W. Kimball (1895–1985).

Chủ Tịch Kimball hỏi: “Anh có phiền không nếu chúng tôi yêu cầu anh phục vụ lâu hơn ba năm?” Sau khi Robert nói rằng ông không có phiền hà, thì Chủ Tịch Kimball đã kêu gọi ông với tư cách là phụ tá cho Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ.

Anh Cả Hales nói: “Chủ Tịch Kimball nói với tôi là ông biết rằng tôi đã thất vọng vì tôi muốn phục vụ với tư cách là chủ tịch phái bộ truyền giáo.” Nhưng Chủ Tịch Kimball đã trấn an ông: “Đừng lo lắng về điều đó; anh sẽ có nhiều sứ mệnh.”19

Một năm sau, Anh Cả Hales được kêu gọi vào Đệ Nhất Nhóm Túc Số Thầy Bảy Mươi. Với chức năng đó cho tới ba năm sau, ông được kêu gọi một lần nữa phục vụ với tư cách là chủ tịch Phái Bộ Truyền Giáo England London và rồi làm giám sát khu vực ở Châu Âu, làm việc với Anh Cả Thomas S. Monson để thiết lập phúc âm ở các quốc gia đã đóng cửa đối với Giáo Hội và để theo đuổi việc xây cất một đền thờ ở Đông Đức.20

Anh Cả Hales nói: “Một trong những niềm vui lớn về sự phục vụ Giáo Hội của tôi đã đến trong ba năm đầu tiên với tư cách là Vị Thẩm Quyền Trung Ương khi tôi đã giúp lập kế hoạch cho 27 đại hội trong khu vực. Tôi thích đi du hành với các thành viên của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn, Các Sứ Đồ, Các Vị Thẩm Quyền Trung Ương, và các vị lãnh đạo khác và tìm hiểu họ và vợ của họ. Việc xem các vị tiên tri, tiên kiến và mặc khải làm chứng về lẽ trung thực của phúc âm cho Các Thánh Hữu từ quốc gia này đến quốc gia khác thật là điều kỳ diệu.”21

Vào năm 1985, Anh Cả Hales được kêu gọi với tư cách là Giám Trợ Chủ Tọa của Giáo Hội. Kinh nghiệm nghề nghiệp chuyên môn của ông, cách quản lý và dàn xếp nhã nhặn của ông, và tình yêu thương của ông dành cho người khác làm cho ông thích hợp với chức vụ kêu gọi đó.

Hình Ảnh
Robert D. Hales with Mary and others at Freiberg temple dedication

Giám Trợ Chủ Tọa Hales đã giúp chuẩn bị cho một ngôi đền thờ ở Đông Đức. Ông và Mary Hales (giữa) cùng với (từ trái sang phải) kiến trúc sư Emil Fetzer, Elisa Wirthlin, Anh Cả Joseph B. Wirthlin, Frances Monson, và Anh Cả Thomas S. Monson tại lễ cung hiến đền thờ vào năm 1985.

Chủ Tịch Henry B. Eyring, Đệ Nhất Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn, đã phục vụ trong Giám Trợ Đoàn Chủ Tọa với Anh Cả Hales. Ông đã gọi Anh Cả Hales là một doanh nhân khôn ngoan, khiêm tốn, trung thành, là người nhạy cảm với mọi người và biết làm thế nào để hoàn thành công việc. Chủ Tịch Eyring nói: “Anh ấy đã mang đến cùng những đức tính tương tự với sự lãnh đạo của Giám Trợ Đoàn Chủ Tọa.”22

Mary, vợ ông nói: “Anh ấy tuyệt đối không gian xảo. Anh ấy có tấm lòng thanh khiết và chỉ muốn làm điều đúng.”23

Trong số các giáo lý mà Anh Cả Hales đã nhấn mạnh với tư cách là Giám Trợ Chủ Tọa là những nguyên tắc an sinh. Ông thường trích dẫn một trong số các câu tục ngữ ưa thích của ông: “Người nâng tôi lên, tôi sẽ nâng người lên, và chúng ta sẽ cùng được nâng lên chung với nhau.”24

Ông cầu nguyện rằng Các Thánh Hữu “có thể nhận biết rằng chúng ta có khả năng và trách nhiệm để giúp đỡ những người hoạn nạn, với tư cách là các thiên sứ phục sự cho Chúa Giê Su Ky Tô, để chúng ta được yêu thương vì chúng ta yêu thương, được an ủi vì chúng ta có lòng trắc ẩn, được tha thứ vì chúng ta đã cho thấy khả năng tha thứ.”25

Những Lời Giảng Dạy và Chứng Ngôn

Chín năm sau, khi Anh Cả Hales được tán trợ vào Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, vào ngày 2 tháng Tư năm 1994, chức vụ kêu gọi mới của ông là một gánh nặng cho ông.

Ông nói trong bài nói chuyện đầu tiên của ông tại đại hội trung ương với tư cách là Sứ Đồ: “Bây giờ, tôi sáu mươi mốt tuổi và là một cậu bé một lần nữa. Có những người đàn ông ngồi trên bục chủ tọa này làm Sứ Đồ và phục vụ trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn đã được một nửa số tuổi đời của tôi.”

Ông nói rằng việc làm một Sứ Đồ của Chúa Giê Su Ky Tô là một tiến trình—“một tiến trình hối cải và khiêm nhường, để nhìn vào tâm hồn như chúng ta đã được chỉ dẫn và cầu xin sự tha thứ và sức mạnh để trở thành con người mà tôi cần phải trở thành.” Ông xin được Các Thánh Hữu cầu nguyện cho để ông có thể “tạo ra sức mạnh thuộc linh cần thiết để có tiếng nói của tôi và chứng ngôn của tôi về Chúa Giê Su Ky Tô xuyên thấu vào tâm hồn của những ai chịu nghe.”26

Trong hơn 20 năm, lời chứng của Anh Cả Hales với tư cách là Sứ Đồ về Đấng Cứu Rỗi và chứng ngôn của ông về phúc âm phục hồi đã xuyên thấu tâm hồn của Các Thánh Hữu Ngày Sau trên khắp thế giới. Các bài giảng của ông gồm có các đề tài như là gia đình và đức tin, những thử thách và chứng ngôn, tình yêu thương và sự nhịn nhục, sự phục vụ và sự vâng lời, tính liêm khiết và quyền tự quyết.

Khi giảng dạy về việc sử dụng quyền tự quyết một cách khôn ngoan, Anh Cả Hales đã chia sẻ một câu chuyện về một người bạn đã phục vụ với ông trong không lực.

Ông nhớ lại: “Trong khi huấn luyện để trở thành một phi công lái máy bay chiến đấu, … tôi đã tập luyện để quyết định khi nào phải nhảy ra khỏi phi cơ nếu đèn báo cháy được bật lên và phi cơ của tôi bắt đầu xoay vòng đến mức không thể nào điều khiển được nữa. Tôi nhớ đến một người bạn thân đã không có những sự chuẩn bị này. Anh ấy tìm cách trốn buổi huấn luyện mô phỏng bay để đi đánh gôn hoặc bơi lội. Anh ấy không bao giờ học những thủ tục trong trường hợp khẩn cấp! Một vài tháng sau đó, phi cơ của anh bốc cháy, xoay vòng và đâm đầu xuống đất. Khi thấy đèn báo cháy, người phi công đồng hành trẻ hơn của anh, vì đã biết được cách phản ứng đã tập luyện trước với tín hiệu, biết khi nào phải nhảy ra khỏi máy bay và nhảy dù xuống chỗ an toàn. Nhưng người bạn của tôi đã không chuẩn bị cho quyết định đó, nên đã ở lại với phi cơ và chết khi phi cơ rớt xuống.”

Anh Cả Hales thêm vào: Việc biết cách hành động và khi nào hành động trong lúc phải đưa ra một lựa chọn quan trọng có thể mang đến những kết quả vĩnh cửu.27

“Là một cậu bé ở New York, tôi đã lớn lên là một trong số hai hoặc ba tín hữu của Giáo Hội trong một trường trung học có vài ngàn học sinh. Mới đây, trong một buổi hội ngộ 50 năm, các bạn học cũ của tôi đã nhớ lại tôi đã sống theo các giá trị và niềm tin của tôi như thế nào. Tôi đã nhận biết rằng một lần vi phạm Lời Thông Sáng hoặc sự phạm giới các giá trị đạo đức có nghĩa là tôi không bao giờ có thể nói: ‘Đây là điều tôi tin’ và được bạn bè của tôi tin tưởng.

“Chúng ta có thể chia sẻ phúc âm chỉ chừng nào chúng ta sống theo phúc âm mà thôi.”28

Trong những năm cuối của thời gian giáo vụ của Anh Cả Hales, ông đã khuyến khích Các Thánh Hữu nên sống xứng đáng với “ân tứ phi thường của Đức Thánh Linh.”29 Ông cũng đã khuyến khích các tín hữu Giáo Hội nên cải thiện vai trò môn đồ của họ bằng cách trở thành những người Ky Tô hữu tốt lành hơn, có được lòng can đảm của người Ky Tô hữu, và đứng vững trong những nơi thánh thiện.

Ông đã dạy: “Đây là sự kêu gọi của Đấng Ky Tô cho mọi Ky Tô hữu ngày nay: ‘Hãy chăn chiên ta. … Hãy chăn chiên ta’—chia sẻ phúc âm của ta với người già lẫn trẻ, nâng đỡ, ban phước, an ủi, khuyến khích và xây dựng những người khác, nhất là những người suy nghĩ và tin khác hơn chúng ta.”30

Hình Ảnh
Robert D. Hales visiting with Boy Scouts

Hình do Jeffrey D. Allred chụp, Deseret News

Đối với “những người khác muốn chúng ta bỏ nơi cao để đi xuống và cùng họ tranh luận về thần học trong vũng bùn,” Anh Cả Hales khuyên bảo Các Thánh Hữu Ngày Sau nên đáp ứng bằng chứng ngôn của họ và đứng cùng với Đấng Cứu Rỗi.

“Chúng ta cho thấy tình yêu thương của Ngài, tức là quyền năng duy nhất mà có thể chinh phục kẻ nghịch thù và trả lời cho những người chỉ trích chúng ta mà không hề chỉ trích họ để đáp trả. Đó không phải là sự yếu đuối. Đó là sự can đảm của Ky Tô hữu.”31

Giống như Đấng Cứu Rỗi “đã bị người ta khinh dể và chán bỏ” (Ê Sai 53:3; Mô Si A 14:3), Các Thánh Hữu Ngày Sau cũng có thể bị hiểu lầm, chỉ trích và cáo gian. “Đó là đặc ân thiêng liêng của chúng ta để được đứng với Ngài!” 32

Chờ Đợi Chúa

Khi Anh Cả Hales nói về việc chờ đợi Chúa, ông đã biết rõ đề tài của mình. Các vấn đề về tim, các cuộc phẫu thuật lớn, và những thử thách mới về sức khoẻ mà đã làm cho ông không nói chuyện được trong đại hội trung ương vào tháng Tư năm 2011, là một thử thách lớn cho sức khỏe của ông nhưng lại mang đến cho ông những sự hiểu biết thuộc linh.

Sau khi hồi phục từ ba cuộc phẫu thuật lớn vào năm 2000, ông đã nói với Các Thánh Hữu Ngày Sau: “Trong hai năm qua, tôi đã chờ Chúa để học những bài học trần thế mà được dạy cho tôi qua những giai đoạn đau đớn về mặt thể xác, thống khổ về mặt tinh thần và suy ngẫm. Tôi đã học được rằng nỗi đau đớn liên tục, mãnh liệt là một sự tinh lọc thánh hóa tuyệt vời để làm chúng ta hạ mình và mang chúng ta đến gần Thánh Linh của Thượng Đế hơn.”33

Anh Cả Hales dạy: Chúng ta không cần phải một mình đối phó với những thử thách vì chúng ta có thể khẩn cầu lên “Đấng chăm sóc tột bậc”.34 “Và thỉnh thoảng, khi Chúa muốn, thì tôi được an ủi nhờ những cuộc viếng thăm của các thiên binh đem lại niềm an ủi và sự tin chắc vĩnh cửu trong lúc tôi gặp hoạn nạn.”35

Anh Cả Hales làm chứng rằng mặc dù chúng ta có thể không biết khi nào hoặc cách nào những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được đáp ứng, nhưng những sự đáp ứng sẽ đến theo cách thức riêng của Chúa và theo kỳ định của Ngài. “Đôi khi, chúng ta có thể phải chờ cho đến sau khi qua đời mới được đáp ứng. … Chúng ta đừng nản lòng đối với Chúa. Các phước lành của Ngài là vĩnh cửu, chứ không phải là tạm thời.”36

Hình Ảnh
Robert D. Hales and various Church leaders

Tôi đã được đặc ân làm việc giữa Các Anh Em Thẩm Quyền Trung Ương tài giỏi nhất mà thế gian này có thể có được.” Những lời nói được đưa ra khi ông được giải nhiệm với tư cách là Giám Trợ Chủ Tọa cũng chứng tỏ ông là một Sứ Đồ chân chính.

Hình do nhã ý của Deseret News Archive

Hình do Stuart Johnson chụp, Deseret News

Một Môn Đồ Trung Tín

Với tư cách là Giám Trợ Chủ Tọa, Anh Cả Hales chia sẻ chứng ngôn giống như của An Ma Con. Ông đã nói: “Ôi nếu tôi có được tiếng nói và tiếng kèn của một thiên sứ để tôi có thể nói với toàn thể nhân loại rằng [Chúa Giê Su Ky Tô] đã sống lại và Ngài hằng sống; rằng Ngài là Con của Thượng Đế, Con Trai Độc Sinh của Đức Chúa Cha, Đấng Mê Si đã được hứa, Đấng Cứu Chuộc và Đấng Cứu Rỗi của chúng ta; rằng Ngài đã đến thế gian này để giảng dạy phúc âm bằng cách nêu gương. Sứ mệnh thiêng liêng của Ngài là nhằm hướng dẫn các anh chị em và tôi đến cùng Ngài và Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.”37

Trong bài nói chuyện của ông trong đại hội trung ương đầu tiên sau khi được kêu gọi vào Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, ông đã trích dẫn lời của Mặc Môn, làm lời chứng của vị tiên tri thời xưa đó thành lời chứng của ông: ″Này, tôi là một môn đồ của Chúa Giê Su Ky Tô, Vị Nam Tử của Thượng Đế. Tôi đã được Ngài kêu gọi để rao truyền lời của Ngài trong dân Ngài, để họ có thể có được cuộc sống vĩnh viễn” (3 Nê Phi 5:13).38

Trong bốn thập niên là Vị Thẩm Quyền Trung Ương, Anh Cả Robert D. Hales đã mạnh dạn và hùng hồn tuyên bố những lời của Đấng Cứu Rỗi qua các bài nói chuyện và cuộc sống gương mẫu của ông. Và ông đã nhớ lời khuyên bảo của mình trong cuộc sống cá nhân, nghề nghiệp và trong giáo hội của mình: “Qua sự vâng lời trung tín và sự kiên trì cho đến cùng, một ngày nào đó chúng ta có thể trở về trong danh dự nơi hiện diện của Cha Thiên Thượng và Vị Nam Tử của Ngài là Chúa Giê Su Ky Tô.”39

Anh Cả Hales vẫn còn hiện diện đối với Các Thánh Hữu Ngày Sau là những người chia sẻ đức tin của ông nơi Đấng Cứu Rỗi. Đúng hơn, ông đã trở về nhà—và ông đã làm như vậy trong danh dự.

Ghi Chú

  1. Robert D. Hales, “‘What Think Ye of Christ?’ ‘Whom Say Ye That I Am?’” Ensign, tháng Năm năm 1979, trang 79.

  2. Robert D. Hales, “The Aaronic Priesthood: Return with Honor,” Ensign, tháng Năm năm 1990, trang 39.

  3. In “Fireside Commemorates Aaronic Priesthood Restoration,” Ensign, tháng Bảy năm 1985, trang 75.

  4. Trong “Elder Robert D. Hales of the Quorum of the Twelve,” Ensign, tháng Năm năm 1994, trang 105.

  5. Xin xem Robert D. Hales, “How Will Our Children Remember Us?” Ensign, tháng Mười Một năm 1993, trang 8.

  6. Robert D. Hales, “Gratitude for the Goodness of God,” Ensign, tháng Năm năm 1992, trang 64.

  7. Robert D. Hales, “Strengthening Families: Our Sacred Duty,” Liahona, tháng Bảy năm 1999, trang 38.

  8. Xin xem Robert D. Hales, “Gratitude for the Goodness of God,” trang 63.

  9. Robert D. Hales, “How Will Our Children Remember Us?” trang 8–9.

  10. Robert D. Hales, “Hãy Đứng Vững tại Những Nơi Thánh Thiện,” Liahona, tháng Năm năm 2013, trang 48.

  11. Robert D. Hales, “How Will Our Children Remember Us?” trang 9.

  12. In LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales: ‘Return with Honor,’” Ensign, tháng Bảy năm 1994, trang 50.

  13. Xin xem Robert D. Hales, “Celestial Marriage—A Little Heaven on Earth” (Buổi họp đặc biệt devotional tại trường Brigham Young University, ngày 9 tháng Mười Một năm 1976), speeches.byu.edu.

  14. Trong LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales: ‘Return with Honor,’” trang 48.

  15. Robert D. Hales, “Trở Thành Những Người Chu Cấp Cần Kiệm về Phương Diện Vật Chất lẫn Tinh Thần,” Liahona, tháng Năm năm 2009, trang 8–9.

  16. Xin xem Robert D. Hales, “Gratitude for the Goodness of God,” trang 65.

  17. Robert D. Hales, “Gifts of the Spirit,” Ensign, tháng Hai năm 2002, trang 19.

  18. Trong LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales: ‘Return with Honor,’” trang 51.

  19. Spencer W. Kimball, trong LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales, ‘Return with Honor,’” trang 52.

  20. Xin xem LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales, ‘Return with Honor,’” trang 52.

  21. Trong “Elder Robert D. Hales of the Quorum of the Twelve,” trang 105–06.

  22. Phỏng vấn với Chủ Tịch Henry B. Eyring, ngày 11 Tháng Sáu năm 2015.

  23. Trong LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales, ‘Return with Honor,’” trang 53.

  24. Robert D. Hales, “Making Righteous Choices at the Crossroads of Life,” Ensign, tháng Mười Một năm 1988, trang 11.

  25. Robert D. Hales, “Welfare Principles to Guide Our Lives: An Eternal Plan for the Welfare of Men’s Souls,” Ensign, tháng Năm năm 1986, trang 30.

  26. Robert D. Hales, “The Unique Message of Jesus Christ,” Ensign, tháng Năm năm 1994, trang 78–79.

  27. Robert D. Hales, “Cùng Các Em Mang Chức Tư Tế A Rôn: Chuẩn Bị cho Thập Niên của Sự Quyết Định,” Liahona, tháng Năm năm 2007, trang 48–49.

  28. Robert D. Hales, “Ten Axioms to Guide Your Life,” Liahona, tháng Hai năm 2007, trang 38–39.

  29. Robert D. Hales, “Đức Thánh Linh,” Liahona, tháng Năm năm 2016, 105.

  30. Robert D. Hales, “Là Một Ky Tô Hữu Giống Như Đấng Ky Tô Hơn,” Liahona, tháng Mười Một năm 2012, trang 91.

  31. Robert D. Hales, “Sự Can Đảm của Ky Tô Hữu: Cái Giá để Làm Môn Đồ,” Liahona, tháng Mười Một năm 2008, trang 74, 72.

  32. Robert D. Hales, “Hãy Đứng Vững tại Những Nơi Thánh Thiện,” Liahona, tháng Năm năm 2013, trang 50.

  33. Robert D. Hales, “Giao Ước Báp Têm: Ở trong Vương Quốc và thuộc về Vương Quốc,” Liahona, tháng Giêng năm 2001, trang 6.

  34. Robert D. Hales, “Healing Soul and Body,” Liahona, tháng Giêng năm 1999, trang 19.

  35. Robert D. Hales, “Giao Ước Báp Têm,” Liahona, tháng Giêng năm 2001, trang 6.

  36. Anh Cả Robert D. Hales thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, “Trông Đợi Chúa: Xin Ý Ngài được Nên,” Liahona, tháng Mười Một năm 2011, trang 73.

  37. Robert D. Hales, “What Think Ye of Christ?” New Era, tháng Tư năm 1987, trang 7.

  38. Robert D. Hales, “The Unique Message of Jesus Christ,” trang 80; xin xem thêm Robert D. Hales, “Christian Courage,” trang 75.

  39. Trong LaRene Gaunt, “Elder Robert D. Hales: ‘Return with Honor,’” trang 53.