Viện Giáo Lý
5 Tất Cả Đều Mất Hết


“Tất Cả Đều Mất Hết,” chương 5 của sách Các Thánh Hữu: Câu Chuyện về Giáo Hội của Chúa Giê Su Ky Tô trong Những Ngày Sau, Tập 1, Cờ Hiệu về Lẽ Thật, 1815-1818trang 46 (2018)

Chương 5: “Tất Cả Đều Mất Hết”

CHƯƠNG 5

Tất Cả Đều Mất Hết

Hình Ảnh
Các Trang Đã Được Phiên Dịch

Sau khi Joseph mang các bảng khắc bằng vàng về nhà, những kẻ tìm kho báu đã cố chiếm đoạt các bảng khắc trong nhiều tuần. Để giữ cho biên sử được an toàn, Joseph đã phải chuyển nó từ nơi này sang nơi khác, hết giấu các bảng khắc dưới lò sưởi, rồi lại bên dưới sàn của cửa hàng của cha ông, và cả trong đống thóc. Ông không lúc nào mất cảnh giác về việc bảo vệ các bảng khắc.

Những người hàng xóm hiếu kỳ hay ghé nhà và nài nỉ ông cho họ xem biên sử. Joseph luôn luôn từ chối, ngay cả khi có người đề nghị trả tiền cho ông. Ông quyết tâm bảo vệ các bảng khắc, tin cậy nơi lời hứa của Chúa rằng nếu ông làm mọi điều trong khả năng của mình, chúng sẽ được bảo vệ.1

Những việc này thường cản trở không cho ông xem xét các bảng khắc và học hỏi thêm về U Rim và Thu Mim. Ông biết rằng các dụng cụ phiên dịch này là nhằm giúp ông dịch các bảng khắc, nhưng ông chưa bao giờ sử dụng các viên đá tiên kiến cho việc đọc một ngôn ngữ cổ xưa. Ông ước ao được bắt đầu công việc, nhưng thật không rõ ràng cho ông về cách để làm việc đó.2

Khi Joseph nghiên cứu các bảng khắc, một người chủ đất đáng kính trọng ở Palmyra tên là Martin Harris bắt đầu quan tâm đến công việc của ông. Martin thì đáng tuổi cha của Joseph và thỉnh thoảng có thuê Joseph giúp việc trên đất của ông. Martin đã nghe về các bảng khắc bằng vàng nhưng không nghĩ nhiều về chúng cho đến khi mẹ của Joseph mời ông đến thăm con trai bà.3

Joseph đang ra ngoài làm việc khi Martin ghé thăm, vì thế ông đã hỏi chuyện Emma và những người khác trong gia đình về các bảng khắc. Khi Joseph về đến nhà, Martin nắm lấy cánh tay Joseph và hỏi về nhiều chi tiết hơn. Joseph kể cho ông nghe về các bảng khắc bằng vàng và các chỉ dẫn của Mô Rô Ni để dịch và xuất bản những điều viết trên các bảng khắc.

Martin tuyên bố: “Nếu đây là công việc của quỷ dữ, thì tôi sẽ không liên can đến nó.” Nhưng nếu đây là công việc của Chúa, thì ông ấy muốn giúp Joseph công bố biên sử với thế giới.

Joseph để cho Martin nhấc các bảng khắc nằm trong rương lên. Martin biết rằng có một vật nặng trong đó, nhưng ông ấy không tin rằng vật đó là một bộ các bảng khắc bằng vàng. Ông nói với Joseph: “Anh không cần phải đổ lỗi cho tôi vì đã không tin lời anh.”

Khi Martin về nhà sau nửa đêm, ông lặng lẽ đi vào phòng riêng và cầu nguyện, hứa với Thượng Đế rằng ông sẽ cho đi mọi thứ ông có nếu ông có thể biết được rằng Joseph đang làm công việc thiêng liêng.

Khi ông cầu nguyện, Martin cảm thấy một tiếng nói nhỏ nhẹ, êm ái phán với tấm lòng ông. Rồi ông biết rằng các bảng khắc là từ Thượng Đế—và ông biết ông phải giúp Joseph chia sẻ sứ điệp từ chúng.4


Và cuối năm 1827, Emma biết rằng bà đang mang thai và viết thư cho cha mẹ của mình. Đã gần một năm kể từ khi bà và Joseph kết hôn, và cha mẹ của bà vẫn không hài lòng. Nhưng ông bà Hale đồng ý cho cặp vợ chồng trẻ quay lại Harmony để Emma có thể sinh con gần gia đình của mình.

Mặc dù việc này sẽ khiến Joseph phải sống xa cha mẹ cùng anh chị em ruột của mình, ông vẫn hăm hở muốn đi. Những người ở New York vẫn đang cố trộm lấy các bảng khắc, và việc chuyển đến sống ở một nơi mới có thể mang lại bình yên và sự riêng tư mà ông đang cần để làm công việc của Chúa. Không may là ông đang mắc nợ và không có tiền cho việc chuyển nhà.5

Với hy vọng giải quyết việc tiền bạc của mình, Joseph đi vào thị trấn để trả một phần nợ nần. Trong khi ông đang trả tiền tại một cửa hàng, Martin Harris bước về phía ông. Ông nói: “Anh Smith, đây là năm mươi đô. Tôi cho anh để làm công việc của Chúa.”

Joseph lo lắng về việc nhận số tiền này và hứa sẽ trả lại nó, nhưng Martin nói đừng lo về điều đó. Số tiền này là một món quà, và ông yêu cầu tất cả mọi người trong căn phòng làm chứng rằng ông đã cho không số tiền này.6

Không lâu sau đó, Joseph trả được nợ và chất đồ đạc lên xe kéo. Rồi ông và Emma đi đến Harmony với các bảng khắc bằng vàng được giấu trong một thùng đậu.7


Đôi vợ chồng đến căn nhà rộng rãi của ông bà Hale khoảng một tuần sau đó.8 Trước đó đã lâu, cha của Emma yêu cầu được xem các bảng khắc bằng vàng, nhưng Joseph nói rằng ông chỉ có thể cho cha vợ thấy cái hộp mà ông cất chúng trong đó. Cảm thấy bực bội, Isaac nhấc cái rương lên và cảm nhận được sức nặng của nó, mặc dù vậy ông vẫn hoài nghi. Ông nói Joseph không thể giữ cái rương trong nhà trừ phi Joseph cho ông thấy thứ ở bên trong.9

Vì cha của Emma ở gần, nên việc phiên dịch thật không dễ dàng, nhưng Joseph đã cố gắng hết sức. Với sự trợ giúp của Emma, Joseph chép lại các chữ lạ lùng từ những bảng khắc sang giấy.10 Rồi, trong một vài tuần, ông cố gắng dịch chúng bằng U Rim và Thu Mim. Tiến trình này đòi hỏi ông phải làm nhiều hơn là chỉ nhìn vào các dụng cụ phiên dịch. Ông phải khiêm nhường và vận dụng đức tin khi nghiên cứu các chữ này.11

Một vài tháng sau, Martin đến Harmony. Ông nói ông cảm thấy được Chúa kêu gọi đi đến tận Thành Phố New York để hỏi ý kiến các chuyên gia về ngôn ngữ cổ. Ông hy vọng họ có thể dịch các chữ này.12

Joseph đã chép thêm chữ từ các bảng khắc, viết xuống bản dịch của mình, và đưa tờ giấy cho Martin. Rồi ông và Emma dõi theo người bạn của họ hướng về phía đông để hỏi ý kiến các nhà học giả lỗi lạc.13


Khi Martin đến Thành Phố New York, ông đã đến gặp Charles Anthon, một giáo sư về tiếng La Tinh và Hy Lạp tại Đại Học Columbia. Giáo sư Anthon còn trẻ—trẻ hơn Martin khoảng mười lăm tuổi—và nổi tiếng nhờ xuất bản một bộ sách bách khoa phổ biến về văn hóa Hy Lạp và La Mã. Ông cũng bắt đầu thu thập các câu chuyện về người Da Đỏ Mỹ Châu.14

Anthon là một học giả cứng nhắc, một người không thích những sự can thiệp, nhưng ông chào đón Martin và nghiên cứu các ký tự cùng bản dịch mà Joseph đã cung cấp.15 Mặc dù vị giáo sư không biết tiếng Ai Cập, ông đã từng đọc các nghiên cứu về ngôn ngữ này và biết nó trông như thế nào. Khi nhìn các ký tự, ông thấy một số điểm tương đồng với tiếng Ai Cập và nói với Martin rằng bản dịch là chính xác.

Martin cho ông xem thêm các ký tự, và Anthon nghiên cứu chúng. Ông bảo rằng chúng gồm có các ký tự từ nhiều ngôn ngữ cổ và đưa cho Martin một giấy chứng nhận về tính xác thật của chúng. Ông cũng đề nghị Martin đưa các ký tự này cho một học giả khác tên là Samuel Mitchill, là người từng giảng dạy tại trường Columbia.16

Anthon nói: “Ông ấy rất hiểu biết về các ngôn ngữ cổ xưa này, và tôi không nghi ngờ gì về việc ông ấy sẽ có thể làm cho ông hài lòng.”17

Martin cầm giấy chứng nhận bỏ vào túi áo, nhưng khi ông vừa bước ra, Anthon gọi ông trở lại. Ông ta muốn biết làm thế nào Joseph tìm được các bảng khắc bằng vàng.

Martin nói rằng: “Một vị thiên sứ của Thượng Đế đã tiết lộ cho anh ta biết.” Ông còn làm chứng rằng bản dịch của các bảng khắc sẽ thay đổi thế giới và cứu nó khỏi sự hủy diệt. Và bây giờ khi ông đã có bằng chứng về tính xác thật của các bảng khắc, ông dự tính bán nông trại của mình và hiến tặng tiền cho việc xuất bản bản dịch đó.

Anthon bảo: “Cho tôi xem tờ giấy chứng nhận đó.”

Martin móc túi lấy ra và đưa nó cho ông ta. Anthon xé nó ra thành từng mảnh và nói rằng làm gì còn có chuyện các thiên sứ phù trợ nữa. Nếu Joseph muốn các bảng khắc được dịch ra, anh ta có thể mang chúng đến trường Columbia và để cho một học giả dịch chúng.

Martin giải thích rằng một phần những bảng khắc đó đã bị niêm phong và Joseph không được phép cho bất kỳ ai xem các bảng khắc.

Anthon trả lời: “Tôi không thể đọc một cuốn sách bị niêm phong được.” Ông ta cảnh báo Martin rằng có lẽ Joseph đang lừa ông. Ông ta bảo rằng: “Hãy coi chừng những kẻ lừa bịp.”18

Martin rời khỏi chỗ Giáo Sư Anthon và đến gặp Samuel Mitchill. Ông này đón tiếp Martin một cách lịch sự, lắng nghe câu chuyện của ông, và đọc các chữ cùng bản dịch. Ông ta không thể hiểu được ý nghĩa của chúng, nhưng có nói rằng các chữ này gợi cho ông về những chữ tượng hình thời Ai Cập cổ và chúng là chữ viết của một dân tộc đã bị tận diệt.19

Martin rời thành phố ít lâu sau đó và quay trở về Harmony, được thuyết phục hơn bao giờ hết rằng Joseph có các bảng khắc bằng vàng cổ xưa và quyền năng để dịch các bảng khắc đó. Ông kể cho Joseph về các cuộc gặp với những vị giáo sư và suy luận rằng nếu một số những người có học thức nhất ở Hoa Kỳ không thể dịch quyển sách, thì Joseph phải làm việc đó.

Cảm thấy bị quá sức trước phận sự này, Joseph nói: “Cháu không thể làm nổi, vì cháu không được học hành.” Nhưng Joseph biết Chúa đã chuẩn bị các dụng cụ phiên dịch để ông có thể dịch các bảng khắc.20

Martin đồng ý. Ông đã định quay về Palmyra, sắp đặt việc kinh doanh của mình, và quay trở lại càng sớm càng tốt để đảm nhiệm việc biên chép cho Joseph.21


Vào tháng Tư năm 1828, Emma và Joseph đang sống trong một ngôi nhà cạnh Sông Susquehanna, không xa nhà của cha mẹ bà.22 Bây giờ khi bước vào giai đoạn sau của thai kỳ, Emma thường biên chép cho Joseph sau khi ông bắt đầu việc phiên dịch biên sử. Một ngày nọ, trong khi đang dịch, Joseph đột nhiên tái mét. Ông hỏi: “Emma, Giê Ru Sa Lem có một bức tường quanh nó à?”

Bà trả lời: “Đúng vậy,” rồi nhắc lại những mô tả trong Kinh Thánh về bức tường.

Joseph nói một cách nhẹ nhõm: “Ôi, anh cứ sợ anh bị lừa gạt.”23

Emma kinh ngạc vì sự thiếu hiểu biết của chồng mình về lịch sử và thánh thư đã không cản trở việc phiên dịch. Joseph khó mà viết được một lá thư mạch lạc. Trong nhiều giờ liền, bà ngồi sát bên ông trong khi ông đọc cho bà viết lại biên sử mà không có sự phụ giúp nào của sách vở hay bản thảo. Bà biết chỉ có Thượng Đế mới có thể soi dẫn cho ông để dịch như vậy.24

Cuối cùng, Martin quay trở về từ Palmyra và đảm nhận thay việc biên chép, để Emma có cơ hội nghỉ ngơi trước khi em bé chào đời.25 Nhưng việc nghỉ ngơi cũng không dễ dàng gì. Vợ của Martin, Lucy, đã khăng khăng muốn đi với ông đến Harmony, và cả hai vợ chồng nhà Harris đều có cá tính mạnh.26 Lucy nghi ngờ về khao khát của Martin để ủng hộ Joseph về mặt tài chính và giận dữ vì ông đã đến Thành Phố New York mà không có bà. Khi ông nói với bà rằng ông sẽ đến Harmony để giúp việc phiên dịch, bà đã tự mời mình đi cùng, với quyết tâm thấy cho được các bảng khắc.

Lucy bị lãng tai, và khi bà không thể hiểu điều người khác đang nói, đôi khi bà lại nghĩ rằng họ đang chỉ trích bà. Bà cũng thiếu tôn trọng sự riêng tư của người khác. Sau khi Joseph từ chối cho bà xem các bảng khắc, bà bắt đầu tìm kiếm khắp nhà, lục lọi khắp các ngăn tủ, tủ đồ, và rương hòm của gia đình. Joseph không có lựa chọn nào khác nên phải giấu các bảng khắc trong rừng.27

Lucy nhanh chóng rời căn nhà và đến ở nhờ một người láng giềng. Emma có lại các tủ chạn cho mình, nhưng giờ thì Lucy đi nói với láng giềng rằng Joseph đang cố lấy tiền của Martin. Sau nhiều tuần gây rắc rối, Lucy trở về nhà tại Palmyra.

Với sự bình yên được khôi phục lại, Joseph và Martin dịch nhanh chóng. Joseph đang tiến triển trong vai trò liêng thiêng của ông là vị tiên kiến và mặc khải. Khi nhìn vào các dụng cụ phiên dịch hoặc một viên đá tiên kiến khác, ông có thể dịch dù các bảng khắc ở trước mặt ông hay được quấn lại bởi một trong các miếng vải bằng lanh của Emma đặt trên bàn.28

Trong suốt tháng Tư, tháng Năm, và đầu tháng Sáu, Emma lắng nghe tiếng Joseph đều đặn dịch biên sử.29 Ông nói chậm nhưng rõ, thỉnh thoảng dừng lại đợi cho Martin nói “viết xong rồi” sau khi ông bắt kịp với điều Joseph đã nói.30 Emma cũng thay phiên biên chép và hết sức ngạc nhiên về cách mà sau những lần bị gián đoạn và giờ nghỉ, Joseph luôn luôn tiếp tục với chỗ đã ngừng lại mà không cần được nhắc.31

Chẳng bao lâu nữa là đến ngày Emma sinh em bé. Chồng bản thảo đã dày lên, và Martin trở nên được thuyết phục rằng nếu ông có thể cho vợ đọc bản dịch này, bà sẽ thấy được giá trị của nó và sẽ ngừng can thiệp vào công việc của họ.32 Ông cũng hy vọng Lucy sẽ hài lòng với việc ông đã dành thời gian của mình và tiền bạc để giúp mang ra công việc của Thượng Đế.

Một ngày nọ, Martin hỏi Joseph cho phép ông cầm bản thảo về Palmyra trong vài tuần.33 Nhớ về cách Lucy Harris đã cư xử khi bà đến thăm nhà, Joseph lo ngại về ý kiến này. Mặc dù vậy ông muốn làm vui lòng Martin, người mà đã tin ông khi có quá nhiều người khác nghi ngờ lời nói của ông.34

Không chắc phải làm gì, Joseph đã cầu nguyện cho sự hướng dẫn, và Chúa phán với ông không được để Martin lấy các trang bản thảo.35 Nhưng Martin chắc chắn việc cho vợ ông xem các trang này sẽ thay đổi mọi thứ, và ông khẩn nài Joseph cầu xin một lần nữa. Joseph đã làm theo, nhưng câu trả lời cũng giống như trước. Martin nài ép ông cầu xin lần thứ ba, tuy nhiên, lần này Thượng Đế cho phép họ làm điều họ muốn làm.

Joseph bảo Martin rằng ông có thể giữ các trang giấy trong hai tuần nếu ông giao ước sẽ giữ chúng an toàn và chỉ cho một vài người nhất định trong gia đình xem. Martin hứa như vậy và trở về Palmyra, với bản thảo trong tay.36

Sau khi Martin rời đi, Mô Rô Ni hiện đến cùng Joseph và lấy đi các dụng cụ phiên dịch.37


Ngay sau hôm Martin đi khỏi, Emma trải qua một cuộc sinh nở đầy đau đớn và sinh được một bé trai. Em bé yếu ớt và xanh xao nên không sống được lâu. Thử thách này khiến Emma kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần, và trong một thời gian dường như bà cũng sẽ qua đời. Joseph săn sóc bà luôn luôn, không bao giờ rời bà lâu.38

Sau hai tuần, sức khỏe của Emma bắt đầu cải thiện, và bà bắt đầu nghĩ về Martin và tập bản thảo. Bà nói với Joseph: “Em cảm thấy bứt rứt trong người, đến nỗi em không thể nghỉ ngơi và sẽ không an tâm cho đến khi em biết được Ngài Harris đang làm gì với tập bản thảo.”

Bà khẩn khoản Joseph đi tìm Martin, nhưng Joseph không muốn xa bà. Bà bèn nói: “Hãy gọi mẹ em đến, và bà sẽ ở với em trong lúc anh đi.”39

Joseph bắt chuyến xe ngựa đi về phía bắc. Trong chuyến hành trình, ông ăn và ngủ rất ít, vì sợ rằng ông đã chống lại Chúa khi không nghe lời Ngài phán rằng không được để cho Martin lấy tập bản thảo.40

Mặt trời vừa mọc lên lúc ông đến nhà cha mẹ mình tại Manchester. Gia đình Smith đang chuẩn bị bữa sáng và đã mời Martin đến ăn cùng họ. Trước tám giờ, bữa sáng đã sẵn sàng trên bàn nhưng Martin chưa tới. Joseph và gia đình bắt đầu lo lắng bồn chồn khi họ chờ đợi Martin.

Cuối cùng, sau khi hơn bốn giờ đồng hồ trôi qua, Martin mới xuất hiện ở đằng xa, bước chậm chạp về phía căn nhà, đôi mắt ông cắm chặt xuống mặt đất phía trước mình.41 Ông dừng lại tại cổng, ngồi lên hàng rào, và kéo mũ xuống che mắt mình lại. Rồi ông đi vào trong nhà và ngồi xuống ăn trong im lặng.

Cả nhà nhìn Martin cầm dao nĩa lên, như thể ông sẵn sàng để ăn, rồi lại đánh rơi chúng. Ông kêu lên, hai tay ấn vào thái dương: “Tôi đã đánh mất linh hồn của mình rồi! Tôi đã đánh mất linh hồn của mình rồi.”

Joseph đứng phắt dậy. “Martin, bác đã đánh mất tập bản thảo rồi sao?”

Martin nói: “Phải, đúng vậy. Tập bản thảo đã mất rồi và tôi không biết nó đang ở đâu.”

Joseph rên rỉ, nắm chặt tay lại: “Ôi, Trời ơi, Trời ơi! Tất cả đều mất hết rồi!”

Joseph bắt đầu đi qua bước lại. Ông không biết phải làm gì cả, bèn yêu cầu Martin: “Bác quay về đi. Tìm lại lần nữa xem.”

Martin khóc: “Vô ích thôi. Tôi đã tìm khắp mọi nơi trong nhà. Tôi thậm chí còn xé toang giường và gối để tìm, và tôi biết tập bản thảo không còn nữa.”

“Tôi phải trở về với vợ tôi với câu chuyện này sao?” Joseph sợ rằng cái tin này sẽ giết chết Emma. “Và tôi sẽ trình diện trước Chúa như thế nào đây?”

Mẹ của Joseph cố gắng an ủi ông. Bà nói rằng có lẽ Chúa sẽ tha thứ cho ông nếu ông khiêm nhường hối cải. Nhưng bấy giờ Joseph khóc lóc, tức giận chính mình vì đã không vâng lời Chúa ngay từ lần đầu. Ông hầu như không ăn trong suốt ngày hôm đó. Ông ở lại vào tối hôm đó và trở về Harmony ngay sáng hôm sau.42

Khi Lucy dõi theo ông, trái tim của bà trĩu nặng. Dường như mọi điều mà cả gia đình họ đã hy vọng—tất cả mọi điều đã mang đến cho họ niềm vui suốt vài năm qua—đã biến mất trong thoáng chốc.43

Ghi Chú

  1. Joseph Smith—History 1:59; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 8, in JSP, H1:236–38 (draft 2); Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [1]–[2]; Knight, Reminiscences, 3.

  2. Knight, Reminiscences, 3–4; Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [1]–[3]; Joseph Smith History, circa Summer 1832, 1, in JSP, H1:11.

  3. “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, Aug. 1859, 167–68; Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [3]–[4]; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 8, in JSP, H1:238 (draft 2). Đề Tài: Các Nhân Chứng của Sách Mặc Môn

  4. “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, Aug. 1859, 168–70.

  5. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 8–9, in JSP, H1:238 (draft 2); Knight, Reminiscences, 3; “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, Aug. 1859, 170.

  6. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [6]; Lucy Mack Smith, History, 1845, 121.

  7. “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, Aug. 1859, 170.

  8. “Mormonism—No. II,” Tiffany’s Monthly, Aug. 1859, 170; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:240 (draft 2).

  9. Isaac Hale, Affidavit, Mar. 20, 1834, in “Mormonism,” Susquehanna Register, and Northern Pennsylvanian, May 1, 1834, [1].

  10. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:240 (draft 2); Knight, Reminiscences, 3.

  11. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [3]; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:240 (draft 2); “Letter from Elder W. H. Kelley,” Saints’ Herald, Mar. 1, 1882, 68; see also Doctrine and Covenants 9:7–8 (Revelation, Apr. 1829–D, at josephsmithpapers.org).

  12. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 5, in JSP, H1:15; Knight, Reminiscences, 3. Topic: Book of Mormon Translation

  13. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:238–40 (draft 2); Joseph Smith History, circa Summer 1832, 5, in JSP, H1:15.

  14. MacKay, “Git Them Translated,” 98–100.

  15. Bennett, “Read This I Pray Thee,” 192.

  16. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:240 (draft 2); Bennett, Journal, Aug. 8, 1831, in Arrington, “James Gordon Bennett’s 1831 Report on ‘The Mormonites,’” 355.

  17. [James Gordon Bennett], “Mormon Religion—Clerical Ambition—Western New York—the Mormonites Gone to Ohio,” Morning Courier and New-York Enquirer, Sept. 1, 1831, [2].

  18. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:240–42 (draft 2); Jennings, “Charles Anthon,” 171–87; Bennett, “Read This I Pray Thee,” 178–216.

  19. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244 (draft 2); Bennett, Journal, Aug. 8, 1831, in Arrington, “James Gordon Bennett’s 1831 Report on ‘The Mormonites,’” 355; Knight, Reminiscences, 4. Topic: Martin Harris’s Consultations with Scholars

  20. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 5, in JSP, H1:15; Isaiah 29:11–12; 2 Nephi 27:15–19.

  21. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [8]; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244; Joseph Smith III, “Last Testimony of Sister Emma,” Saints’ Herald, Oct. 1, 1879, 289–90.

  22. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244 (draft 2); Isaac Hale, Affidavit, Mar. 20, 1834, in “Mormonism,” Susquehanna Register, and Northern Pennsylvanian, May 1, 1834, [1]; Agreement with Isaac Hale, Apr. 6, 1829, in JSP, D1:28–34.

  23. Briggs, “A Visit to Nauvoo in 1856,” 454; see also Edmund C. Briggs to Joseph Smith, June 4, 1884, Saints’ Herald, June 21, 1884, 396.

  24. Joseph Smith III, “Last Testimony of Sister Emma,” Saints’ Herald, Oct. 1, 1879, 289–90; Briggs, “A Visit to Nauvoo in 1856,” 454.

  25. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244 (draft 2); Isaac Hale, Affidavit, Mar. 20, 1834, in “Mormonism,” Susquehanna Register, and Northern Pennsylvanian, May 1, 1834, [1].

  26. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [8].

  27. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [3]–[5], [8]–[9].

  28. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [9]–[10]; Joseph Smith III, “Last Testimony of Sister Emma,” Saints’ Herald, Oct. 1, 1879, 289–90.

  29. Khi kể lại câu chuyện, Emma Smith nói rằng bà đã làm việc trong cùng một phòng với Joseph và Oliver Cowdery khi họ hoàn tất bản dịch vào năm 1829, và bà có vẻ cũng có mặt khi Joseph và Martin phiên dịch vào năm 1828. (Joseph Smith III, “Last Testimony of Sister Emma,” Saints’ Herald, Oct. 1, 1879, 290.)

  30. William Pilkington, Affidavit, Cache County, UT, Apr. 3, 1934, in William Pilkington, Autobiography and Statements, Church History Library; “One of the Three Witnesses,” Deseret News, Dec. 28, 1881, 10.

  31. Briggs, “A Visit to Nauvoo in 1856,” 454; Joseph Smith III, “Last Testimony of Sister Emma,” Saints’ Herald, Oct. 1, 1879, 289–90.

  32. See Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [10]; Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244; Joseph Smith History, circa Summer 1832, 5, in JSP, H1:15; Knight, Reminiscences, 5; and Historical Introduction to Preface to the Book of Mormon, circa Aug. 1829, in JSP, D1:92–93.

  33. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9, in JSP, H1:244 (draft 2); Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [10].

  34. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 6, [10]–[11]; book 7, [1].

  35. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 5, in JSP, H1:15.

  36. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9–10, in JSP, H1:244–46 (draft 2); Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [1]; Knight, Reminiscences, 5.

  37. Joseph Smith History, 1838–56, volume A-1, 9–10, in JSP, H1:244–46 (draft 2).

  38. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [1]–[2]. Đề Tài: Gia Đình Joseph và Emma Hale Smith

  39. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [1]–[2].

  40. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [2]–[4].

  41. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [5].

  42. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [5]–[7]. Đề Tài: Tập Bản Thảo Bị Mất của Sách Mặc Môn

  43. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, book 7, [7]. Đề Tài: Lucy Mack Smith